Dàn Ý Và 5 Bài Phân Tích Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ Hay Nhất

tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
Rate this post

Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ là một trong những bài thơ quan trọng của văn học 10. Dưới đây, Review Điện Thoại đã sưu tầm được những bài dàn ý, phân tích hay nhất về bài thơ này. Các bạn cùng tìm hiểu nhé!

Đừng bỏ lỡ >> Giấu Hay Dấu Mới Đúng Chính Tả Tiếng Việt? Các Cặp Từ Giấu – Dấu Dễ Gây Nhầm Lẫn 

Dàn ý phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

Dàn ý 1

I. Mở bài

– Giới thiệu tác giả Đặng Trần Côn và dịch giả Đoàn thị Điểm

– Giới thiệu tác phẩm Chinh phụ ngâm (hoàn cảnh sáng tác) và đoạn trích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (vị trí, nội dung đoạn trích).

II. Thân bài
1. 16 câu đầu: Tình cảm cô đơn, lẻ loi của người chinh phụ.
a. Hành động lặp đi lặp lại một cách nhàm chán, vô vị.
– “Thầm reo từng bước”: Bước chân lặng lẽ dạo trên hiên vắng.
– “Rủ thác đòi phen”: Vào trong phòng cuốn rèm, buông rèm
→ Hành động lặp lại đi lặp lại một cách vô thức, thể hiện sự bần thần, bất định của người chinh phụ
– Chữ “vắng, thưa”: Không chỉ gợi sự vắng lặng của không gian mà còn cho thấy nỗi trống vắng trong lòng người người chinh phụ
b. Thao thức ngóng trông tin chồng
– Ban ngày:
+ Người chinh phụ gửi niềm hi vọng vào tiếng chim thước – loài chim khách báo tin lành.
+ Nhưng thực tế “thước chẳng mách tin”: Tin tức chồng vẫn bặt vô âm tín.
– Ban đêm:
+ Người chinh phụ thao thức cùng ngọn đèn hi vọng đèn biết tin tức về chồng, san xẻ nỗi lòng cùng nàng.
+ Thực tế: “Đèn chẳng biết” “lòng thiếp riêng bi thiết” Câu thơ có hình thức đặc biệt khẳng định rồi lại phủ định, ngọn đèn có biết cũng như không vì nó chỉ là vật vô tri không thể san sẻ nỗi lòng cùng người chinh phụ.
+ So sánh với bài ca dao “khăn thương nhớ ai”, bài ca dao cũng có xuất hiện hình ảnh ngọn đèn. Nếu “đèn” trong bài ca dao là tri âm tri kỉ với người phụ nữ thì ở đây ngọn “đèn” lay lắt lại cứa sâu thêm nỗi đau trong lòng người.
– Hình ảnh so sánh “hoa đèn” và “bóng người”.
+ “Hoa đèn” đầu bấc ngọn đèn, thực tế là than. Cũng giống như ngọn đèn cháy hết mình để rồi chỉ con hoa đèn tàn lụi, người phụ nữ đau đáu hết lòng chờ chồng nhưng cuối cùng nhận lại sự cô đơn, trống trải.
+ Liên hệ với nỗi cô đơn của Thúy Kiều sau khi từ biệt Thúc Sinh trở về với chiếc bóng năm canh:
“Người về chiếc bóng năm canh/Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi”
c. Cảm nhận khác thường của người chinh phụ về ngoại cảnh.
– “Gà gáy”, “sương”, “hòe”: Là những hình ảnh gắn với cuộc sống thôn quê bình dị, yên ả
– Từ láy “eo óc, phất phơ”: Cực tả vẻ hoang vu, ớn lạnh đến ghê rợn của cảnh vật.
→ Dưới con mắt trống trải cô đơn cả người chinh phụ, những cảnh vật vốn gắn với cuộc sống yên bình, êm ả nay trở nên khác thường, hoang vu, ớn lạnh. Đó là cách nói tả cảnh để ngụ tình.
d. Cảm nhận khác thường của người chinh phụ về thời gian.
– “Khắc giờ đằng đẵng”, “mối sầu dằng dặc”: Thể hiện sự dàn trải của nỗi nhớ miên man không dứt.
– Biện pháp so sánh kết hợp với các từ láy giàu giá trị gợi hình gợi cảm “dằng dặc, đằng đẵng” cho thấy sự cảm nhận khác thường về thời gian, mỗi phút mỗi giờ ngắn ngủi trôi qua mà nặng nề như một năm dài, thời gian càng dài mối sầu càng nặng nề hơn.
→ Câu thơ cực tả nỗi cô đơn tột cùng tột độ trong lòng người chinh phụ
e. Hoạt động gắng gượng duy trì nếp sống hằng ngày.
– Điệp từ “gượng”: nhấn mạnh sự cố gắng gò ép mình của người chinh phụ
– Mâu thuẫn giữa lí trí và tình cảm:
+ Đốt hương tìm sự thanh thản nhưng tình cảm lại mê man theo những suy nghĩ viển vông, khắc khoải, những dự cảm chẳng lành
+ Soi gương nhưng chỉ thấy hiện lên đó gương mặt đau khổ đầm đìa nước mắt.
+ Gượng gảy đàn sắt đàn cầm để ôn lại kỉ niệm vợ chồng nhưng lại lo lắng có điềm gở. Sự lo lắng không chỉ cho thấy nỗi cô đơn mà còn cho thấy niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ.
⇒ Tiểu kết:
– Nội dung: Khắc họa tâm trạng cô đơn, lẻ loi, trống vắng của người phụ nữ, ẩn sau đó thái độ cảm thông, chia sẻ của tác giả đối với nỗi đau khổ của con người.
– Nghệ thuật:
+ Giọng thơ trầm buồn, khắc khoải, da diết, trầm lắng
+ Khắc họa nội tâm nhân vật tài tình, tinh tế thông qua hành động nhân vật, yếu tố ngoại cảnh, độc thoại nội tâm
+ Các biện pháp tu từ: So sánh, điệp từ, từ láy.
2. Nỗi nhớ nhung của người chinh phụ.
a. Ước muốn của người chinh phụ.
– “Gió đông”: Gió mùa xuân mang theo hơi ấm và sự sống
– “Non Yên”: Điển tích chỉ nơi biên ải xa xôi
– “Nghìn vàng”: Hình ảnh ẩn dụ cho tấm lòng của người chinh phụ (buồn tủi, cô đơn, lo lắng, trống vắng, hi vọng rồi lại thất vọng)
→ Với các hình ảnh ẩn dụ và điển tích đã cho thấy ước muốn của người chinh phụ gửi gắm niềm hi vọng, thương nhớ vào ngọn gió xuân mang đến nơi chiến trường xa xôi để người chinh phu thấu hiểu và trở về cùng nàng.
b. Nỗi nhớ của người chinh phụ
– Thủ pháp điệp liên hoàn “Non yên – non yên, trời – trời”: Nhấn mạnh khoảng cách xa xôi, trắc trở không gì có thể khỏa lấp, đồng thời cực tả nỗi nhớ vời vợi , đau đáu trong lòng người chinh phụ
– Từ láy “thăm thẳm, đau đáu”: Cực tả cung bậc của nỗi nhớ, thẳm thẳm là nỗi nhớ sâu, dai dẳng, triền miên, đáu đáu là nỗi nhớ gắn với nỗi đau, nỗi sầu.
→ Câu thơ ghi lại một cách tinh tế, cảm động sắc thái nỗi nhớ, nỗi nhớ mỗi lúc một tăng tiến, dồn nén trở thành nỗi đau xót xa.
→ Sự tinh tế, nhạy cảm, đồng điệu của tác giả.

c. Mối quan hệ giữa ngoại cảnh và tâm cảnh.
– “Cảnh buồn”, “người thiết tha lòng”: Cảnh và người đều gặp nhau ở nỗi buồn và niềm đau
– Cảnh vốn là vật vô tri nhưng tâm trạng của con người đã nhuốm sầu cảnh vật.
→ Thủ pháp tả cảnh ngụ tình, người chinh phụ đã hướng nỗi buồn ra ngoài cảnh vật khiến nó cũng trở nên não nề.
⇒ Tiểu kết.
– Nội dung: Khắc họa nỗi buồn, nỗi đau, nỗi nhớ của người chinh phụ, ẩn sau đó là sự đồng cảm, trân trọng của tác giả đối với số phận và phẩm hạnh người phụ nữ
– Nghệ thuật:
+ Sử dụng các biện pháp tu từ ẩn dụ, điệp liên hoàn, từ láy
+ Thủ pháp tả cảnh ngụ tình
+ Giọng điệu da diết, buồn thương

III. Kết bài
– Khái quát nội dung và nghệ thuật của đoạn trích
– Liên hệ với số phận của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến phải xa chồng vì chiến tranh phi nghĩa: Vũ Nương. Qua đó, phê phán chiến tranh phi nghĩa tước đi hạnh phúc người phụ nữ.

tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
Dàn ý cả bài tham khảo

Dàn ý 2

I. Mở bài

Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

  • Tác giả: Đặng Trần Côn sinh ra Hà nội.
  • Tác phẩm: Tình cảnh lẻ loi người chinh phụ viết về cảnh và tâm trạng người phụ nữ phải sống trong cô đơn, buồn khổ, trong thời gian đợi chồng đi đánh giặc trở về, không có tin tức.

II. Thân bài

– Phân tích:

Tám câu đầu: Thời gian chờ đợi mỏi mòn.

  • Hai câu thơ đầu: Hành động vô thức của người chinh phụ, hành động lặp đi lặp lại tâm trí đã để nơi biên ải xa nên tất cả việc làm đều không kiểm soát.
  • Hai câu tiếp: Sự ngóng trông chim khách báo tin lành những biệt vô âm tín.
  • Hình ảnh ngọn đèn: Nói lên thời gian trôi nhanh, người phụ nữ cô đơn một mình đối diện với ngọn đèn vô tri, vô giác lòng mang đầy nỗi sầu, sầu thương về niềm hạnh phúc dở dang.
  • Gà eo óc: Tiếng gà âm thanh duy nhất trong đêm tối nhưng lại nhanh chóng im lặng.
  • Hòe phất phơ: Gợi cảm giác cô quạnh, lạnh lẽo và sự cô đơn của người chinh phụ.

– “Khắc giờ” mà cứ như một năm chờ đợi, mối sầu đã đong đầy thành biển khơi vô tâm.

– Người thiếu phụ đợi chờ chồng trong mỏi mòn, lo lắng trong sự bồn chồn không yên lo cho sự bình an của chồng.

– Sự gắng gượng thoát khỏi nỗi bủa vây của sự cô đơn:

  • gượng đốt hương -> mê mải về quá khứ
  • gượng soi gương -> nước mắt tuôn trào
  • gảy đàn -> lo cho đứt dây đàn báo điềm chẳng lành.

– Người phụ nữ gắng gượng bản thân thoát nỗi cô đơn, nhưng càng bị bủa vây nỗi cô đơn đó, càng đau khổ tuyệt vọng.

* Tám câu cuối: Sự thương nhớ của người thiếu phụ

  • Gió đông: Gió mùa xuân
  • Nghìn vàng: lòng thương nhớ, trân trọng quý như vàng.
  • Núi Yên: nơi chiến trận ngoài biên ải xa xôi.–> Người thiếu phụ gửi nỗi nhớ vào gió đến chồng của mình
  • Núi Yên ở đâu nàng cũng không biết, trời thăm thẳm xa vời không thấu cho nỗi niềm của nàng
  • Cảnh buồn: sương, cành cây, mưa phùn đượm nỗi buồn người chinh phụ. Thiết tha là nỗi buồn khôn nguôi, không lối thoát, dai dẳng, dày sé con tim.

III. Kết bài

  • Bài thơ hay
  • Cung bậc và sắc thái khác nhau sự cô đơn, buồn khổ, khát khao sống trong tình yêu và hạnh phúc lứa đôi.
tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
Dàn ý cả bài tham khảo

Tìm hiểu >>  Quốc Kỳ Các Nước Đông Nam Á, Châu Á, Châu Âu Và Châu Mỹ

Phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

 Bài phân tích số 1

Tác phẩm ” Chinh phụ ngâm”, nguyên văn chữ Hán do Đặng Trần Côn sáng tác. Ông sống vào khoảng đầu thế kỉ XVIII, nổi tiếng vì ham học, học giỏi. Ông có nhiều sáng tác được người đương thời ca tụng, nhất là các bài phú. “Chinh phụ ngâm” là một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của ông, tác phẩm có giá trị sâu sắc về nội dung và nghệ thuật mà tiêu bểu là đoạn thơ sau:

” Dạo hiên Vắng thầm gieo từng bước,

……………………………………………….

Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.”

Đầu đời Lê Hiển Tông có nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra quanh kinh thành Thăng Long. Triều đình cất quân đánh dẹp nhiều trai tráng phải từ giã người thân ra trận. Đặng Trần Côn cảm động trước nỗi đau mất mát của con người, nhất là những người vợ lính trong chiến tranh nên ông đã viết ” Chinh phụ ngâm”.

Tác phẩm gồm 476 câu thơ, được làm theo thể trường đoản cú ( câu dài ngắn không đều nhau). Khúc ngâm nguyên văn chữ Hán được dịch ra tiếng Việt bằng thể thơ song thất lục bát rất thành công – là thể thơ có các khổ thơ song thất lục bát liên kết với nhau thành một bài thơ dài, phù hợp để vừa kể vừa bày tỏ tâm trạng; đồng thời đây là thể thơ giàu nhạc điệu, thích hợp bày tỏ tâm trạng buồn bã triền miên, nhớ nhung sầu muộn. Bản dịch hiện hành được xem là của dịch giả Đoàn Thị Điểm – một nữ sĩ tài giỏi thông minh.

Đoạn trích ” Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” thuộc đoạn thơ từ câu 193 đến câu 216 trong tác phẩm. Nội dung tóm tắt của 193 câu trước đó như sau : Sau khi tiễn người chồng ra trận, chinh phụ trở về chờ đợi với hi vọng mau chóng được gặp lại chồng, vì chàng đã hứa trong buổi lên đường là sẽ mau chóng trở về sống đoàn tụ. Nhưng các mốc thời gian mà chàng hẹn ước đều trôi qua mà chinh phụ vẫn sống cô đơn. Nàng dời nhà ra đi tìm gặp người chồng tại những điểm hẹn trước nhưng vẫn không thấy bóng chàng. Nàng đành quay trở về chốn khuê phòng, bắt đầu chuỗi ngày tháng sống mỏi mòn trong khắc khoải chờ mong.

Đoạn trích viết về tình cảnh và tâm trạng người chinh phụ phải sống cô đơn, buồn khổ trong thời gian dài người chồng đi đánh trận, không có tin tức, không rõ ngày trở về.

Tám câu đầu là nỗi cô đơn, lẻ bóng của người chinh phụ:

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước

………………………………………………

Hoa đèn kia với báng người khá thương”

Tâm trạng người chinh phụ thể hiện qua những hành động, cử chỉ lặp đi lặp lại: “dạo hiên vắng” buông những bước nặng nề, mệt mỏi ; “ngồi rèm thưa” buông rèm xuống, kéo rèm lên nhiều lần. Đó là những hành đông vô hồn, không có mục đích, bộc lộ tâm trang cô đơn, lẻ loi, nỗi lòng không biết san sẻ cùng ai của người chinh phụ. Hướng đến mong chờ tin tức từ “ chim thước”, vậy mà tin vẫn cứ im bặt, vẫn vô tình với người chinh phụ. Nàng hướng tới ngọn đèn trong căn phòng vắng để bày tỏ tâm trạng nhưng rồi cũng vô ích vì ngọn đèn cũng chỉ là vật vô tri vô giác làm sao thấu hiểu nỗi lòng chinh phụ. Bằng cách điêp bắc cầu và sử dụng câu hỏi tu từ: “đèn có biết? – đèn biết chăng?” càng làm nổi bật tâm trạng buồn triền miên, kéo dài, sự khắc khoải trong thời gian, không gian dường như không bao giờ dứt. Cuối cùng còn lại là hình ảnh ngọn đèn, hoa đèn cùng hình ảnh cái bóng in trên tường của chính mình. Những hình ảnh đó gợi sự đối bóng giữa người chinh phụ với ngọn đèn khuya, vẫn chỉ là “ một mình mình biết một mình mình hay”.

Tám câu tiếp theo là nỗi sầu muộn triền miên của chinh phụ:

“Gà eo óc gáy sương năm trống

……………………………………………………

Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.”

Để diễn tả tâm trạng buồn rầu, nhớ thương và cô đơn của người chinh phụ, tác gỉa đã mượn hình ảnh tự nhiên: “ gà eo óc” để chỉ thời gian năm canh đã trôi qua, một đêm trôi qua, người chinh phụ thức trắng ; hình ảnh “ hòe phất phơ” gợi không gian tĩnh mịch, vắng lặng, trống trải. Tâm trạng buồn rầu, thương nhớ trong vô vọng trải dài cùng thời gian, trải rộng cùng không gian. Bằng biện pháp so sánh “ khắc giờ đằng đẳng như niên”, thời gian được cảm nhận là thời gian tâm lí, đếm từng bước thời gian nặng nề trôi, người chinh phụ cảm nhận một giờ dài tựa một năm, kết hợp với các từ láy : “đằng đẳng”,”đau đáu” càng khiến nỗi buồn như nhân lên gấp bội. Cuối cùng nàng tìm đến những thú vui tao nhã thường ngày như : đốt hương, soi gương, gảy đàn gượng gạo, cố ép mình, để rồi gượng đốt hương “ hồn đà mê mải”,gượng soi gương nước mắt dàn dụa, gượng gảy đàn sợ dây uyên đứt, phím loan chùng sẽ có điềm không hay về chồng ở nơi biên ải xa xôi. Chính vì vậy nỗi buồn không được giải tỏa mà càng tăng lên gấp bội, càng nhiều hơn. Bằng cách sử dung hình ảnh ẩn dụ tượng trưng : “sắt cầm”, “dây uyên”, “phím loan” mang tính chất ước lệ góp phần vào việc diễn tả tâm trạng thực của người chinh phụ, luôn nghĩ và hướng tới người chồng đang chinh chiến ở xa.

Tám câu cuối là nỗi nhớ thương đau đáu, không nguôi hướng tới chồng nơi biên ải xa xôi:

“ Lòng này gửi gió đông có tiện

…………………………………………………….

Cành cây sương đượm tiếng mưa phun.”

Tâm trạng cô đơn, lẻ bóng, mối sầu muộn nặng trĩu là những cảm xúc được dồn nén để thể hiện nỗi nhớ thương không nguôi. Người chinh phụ đã thể hiện niềm khao khát cháy bỏng muốn gửi nỗi lòng tới “non Yên”, mong được chồng thấu hiểu, mong được chồng sẻ chia thông qua “gió đông”, ngọn gió mùa xuân đầy tình yêu và hi vọng. Bằng cách mượn hình ảnh thiên nhiên “non Yên” – “đường lên bằng trời” mang tính chất ước lệ gợi không gian vô tận, bát ngát, xa xôi, mênh mông, không giới hạn, kết hợp với từ láy “thăm thẳm”, “đau đáu” không chỉ gợi lên sự ngăn cách giữa hai vợ chồng mà đó còn nhằm diễn tả mức độ của nỗi nhớ, nỗi nhớ đau đáu không nguôi. Trong văn học trung đại VN một thủ pháp nghệ thuật thường được sử dụng và đạt hiệu quả cao trong việc bộc lộ tâm trạng con người, đó là bút pháp tả cảnh ngụ tình. Nguyễn Du từng khái quát: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.”

Điều đó thật đúng trong trường hợp này, tâm trạng buồn rầu, nỗi nhớ không nguôi của người chinh phụ như thấm sâu vào cảnh vật xung quanh, trông theo cảnh vật càng khiến nỗi lòng đau đớn, xót xa, bao trùm lên cảnh là nỗi nhớ chồng không nguôi, là niềm thương đau đáu.

Tâm trạng cô đơn buồn khổ của người chinh phụ trong tình cảnh éo le, chia lìa được thể hiện rất thành công nhờ việc tác giả miêu tả tài tình diễn biến nội tâm nhân vật, sử dụng thành công bút pháp tả cảnh ngụ tình với cách sử dụng từ ngữ chọn lọc, kết hợp những biện pháp nghệ thuật như : từ láy , điệp, hình ảnh ước lệ tượng trưng…

Tóm lại,bằng những biện pháp nghệ thuật rất đắc sắc, đoạn trích đã thể hiện thành công tâm trạng cô đơn, lẻ bóng, những sầu muộn triền miên và nỗi nhớ thương đau đáu không nguôi của người chinh phụ trong tình cảnh chia lìa . Đó còn là tiếng nói lên án, tố cáo chiến tranh phong kiến phi nghĩa, bày tỏ khát khao được sống trong tình yêu, hạnh phúc lứa đôi của con người. Đây cũng là ý nghĩa làm nên giá trị nhân văn sâu sắc trong tác phẩm “ Chinh phụ ngâm”.

Bài phân tích số 2

Đặng Trần Côn sống vào khoảng nửa đầu thế kỷ XVIII.Ông là người làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì,nay thuộc quận Thanh Xuân ,Hà Nội.Ngay từ thời trẻ,ông đã nổi tiếng về tài văn chương.Ông có nhiều tác phẩm nhưng nổi tiếng nhất vẫn là “Chinh phụ ngâm ” được viết bằng chữ Hán.”Chinh phụ ngâm ” được nhiều người diễn Nôm.Bản diễn Nôm thành công nhất được xem là của Đoàn Thị Điểm.Phải chăng trong bất cứ cuộc chia li nào thì người ở lại cũng là người đau khổ nhất. Nền văn học Việt Nam đã chứng kiến biết bao cuộc chia li trong lịch sử, đặc biệt ở thế kỉ XVIII, Đặng Trần Côn đã lấy bối cảnh cuộc chia li đầy lưu luyến, bi thương của người phụ nữ phải xa chồng trong thời gian dài, chờ tin chồng ra trận trở về với khao khát hạnh phúc lứa đôi qua đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”.

Hiện thực chiến tranh tàn khốc, Đặng Trần Côn đã hướng ngòi bút nhân đạo của mình đến nỗi đau của người phụ nữ để cất lên tiếng nói của cả thời đại. Tác giả lên án chiến tranh phi nghĩa, cướp đi cuộc sống ấm no, hạnh phúc của con người. Có lẽở nơi chiến trường kia, chinh phu đang phải đối diện cận kề với cái chết thì ở nơi quê nhà chinh phụ cũng đang mong mỏi chờ đợi tin tức của chồng trong vô vọng, buồn tủi. Với thể thơ song thất lục bát, đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” đã miêu tả những cung bậc và sắc thái khác nhau của nỗi cô đơn ở người chinh phụ với khao khát được sống trong tình yêu, trong hôn nhân hạnh phúc gia đình.

Ở tám câu thơ đầu, nhà thơ đã miêu tả nỗi cô đơn, lẻ loi của người chinh phụ khi chờ tin chồng ở nơi chiến trận:

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,

Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.

Ngoài rèm thước chẳng mách tin,

Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?

Đèn có biết dường bằng chẳng biết,

Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.

Buồn rầu nói chẳng nên lời,

Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”

Giữa không gian tĩnh mịch và vắng vẻ, người phụ nữ bồn chồn, thấp thỏm chờ tin chồng chính là hiện thân của nỗi cô đơn. Nếu tiếng yêu thúc giục nàng Kiều “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” thì ở đây, trước hiên vắng người phụ nữ lại “thầm gieo từng bước”. Không gian mà thi sĩ gợi ra ở đây chính là “hiên vắng” nhỏ hẹp trước nhà.Nàng lo lắng, đi đi lại lại như muốn gieo rắc vào lòng người đọc những thanh âm của sự cô đơn, lẻ bóng. Mặc dù xuất hiện với hành động “dạo” thế nhưng những bước chân ấy có chút gì đó nặng nề để “thầm gieo từng bước”. Có lẽ, thẳm sâu trong tâm hồn người phụ nữ đó đang chất chứa những nỗi niềm, tâm sự được bộc lộ thành những hành động dường như vô thức, nàng buông rèm rồi lại kéo rèm: “Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.” Hành động đó cho thấy người chinh phụ như đang trông ngóng tin tức của chồng ở nơi biên ải xa xôi nhưng nàng đều nhận lại được sự im lặng đến đáng sợ.Dù trong bất cứ tư thế nào thì những tình cảm thương nhớ ấy cũng không khỏi khắc khoải, thường trực trong tâm hồn người chinh phụ.

Hành động “rủ”, “thác” ấy lại gợi nhắc đến sự nhớ mong trong vô hạn.Nàng cuốn rèm với sự chờ đợi, mong ngóng con “chim thước” ở “ngoài rèm” sẽ đem đến tin vui cho nàng về người chồng đang chinh chiến nơi chiến trường.Nỗi nhớ của người chinh phụ được bộc lộ qua nhiều chiều không gian khác nhau, không chỉ ở “ngoài rèm” mà cả ở “trong rèm”.Thế giới nội tâm của nàng nhuốm màu sắc tâm trạng. Người chinh phụ đã tự vấn mình rằng “Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?”. Trong nỗi bồn chồn khắc khoải ấy, người phụ nữ không biết chia sẻ cùng ai, đành bộc lộ những tâm tư tình cảm đó với một ngọn đèn leo lét “Đèn có biết dường bằng chẳng biết”. Nhà thơ đã sử dụng điệp ngữ bắc cầu “đèn biết chăng- đèn có biết” đã diễn tả tâm trạng buồn lê thê trong thời gian vô tận và không gian tĩnh mịch, cô đơn dường như không bao giờ kết thúc. Đó là câu hỏi tu từ nhưng cũng là lời than thở, tự dằn vặt mình.Ngọn đèn đã chứng kiến và soi tỏ nỗi lòng của người chinh phụ, bởi “đèn” chính là người thức cùng, cùng người chinh phụ giãi bày tâm sự, nhớ mong. Nỗi buồn ấy không thể bộc lộ mà người phụ nữ chỉ muốn giữ riêng cho mình: “Lòng thiếp riêng bi thiếp mà thôi”. Người phụ nữ cảm thấy cô đơn, trống trải trong chính căn phòng của mình bởi chính không gian chật hẹp, vắng vẻ nơi đây đã làm nàng gợi nhớ đến biết bao kỉ niệm quen thuộc. Thế nhưng để tìm được một người để có thể giúp nàng giãi bày tâm sự, lắng nghe nàng nói quả là một điều không phải dễ dàng.Nàng giữ riêng mình nàng biết, bởi có nói ra cũng đâu có ai hiểu được, đâu có ai đồng cảm với nàng.

Chủ thể của nỗi nhớ được hiện ra ngày càng rõ nét hơn với hình ảnh “Hoa đèn kia với bóng người khá thương”. Hình ảnh “hoa đèn” gợi nhắc đến bóng người thương đó chính là chồng nàng, người cùng nàng gắn bó cả cuộc đời thế nhưng nay nàng chẳng có một chút tin tức gì về người chồng đang tham gia chinh chiến nơi chiến trường để bảo vệ nền độc lập của tổ quốc, bảo vệ no ấm cho dân lành. Nàng thấy số phận mình chỉ như kiếp “hoa đèn” mong manh trước gió và có thể dập tắt bất cứ lúc nào. Hình ảnh “ngọn đèn”, “hoa đèn” cùng với hình ảnh cái bóng trên tường của nàng gợi nhắc cho ta nhớ đến hình ảnh ngọn đèn không tắt trong bài ca dao quen thuộc: “Đèn thương nhớ ai mà đèn không tắt?”.Phải chăng ngọn đèn của tình yêu ấy vẫn luôn cháy rực trong bóng đêm yên lặng vì đang nhung nhớ một “bóng người khá thương” chăng?Nỗi buồn của người chinh phụ đã bao trùm lên cả không gian và thời gian, tác giả đã đi đến tận cùng của nỗi nhớ trong lòng người chinh phụ.

Nỗi nhớ chồng của người chinh phụ không chỉ được bao bọc trong không gian chật hẹp là căn buồng vắng, mà nỗi nhớ ấy còn được thường nhắc qua thiên nhiên, qua cảnh vật để nói lên tâm trạng của nhân vật trữ tình:

“Gà eo óc gáy sương năm trống,

Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.

Khắc giờ đằng đẵng như niên,

Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.

Hương gượng đốt hồn đà mê mải,

Gương gượng soi lệ lại châu chan.

Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,

Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng.”

Có lẽ, chính sự tương tư mong nhớ chồng cả ngày lẫn đêm đã làm cho người chinh phụ phải trằn trọc suốt cả đêm dài. Nàng cảm nhận được từng khoảnh khắc trôi qua, từng cảnh vật trong đêm khuya tĩnh lặng đó là tiếng gà gáy “sương năm trống”,là những cành “hòe phất phơ rủ bóng bốn bên”. Thế nhưng tiếng gà ấy lại “eo óc” gợi cho ta thấy trong một không gian tĩnh lặng, tiếng gà vang lên tang tóc, tang thương đến chán chường. Từ láy “phất phơ” có tính gợi hình cao cho thấy tâm trạng trông mong, ngóng chờ một chút tin tức về chồng của người chinh phụ. Nàng đã thức trọn cả năm canh, chính nỗi nhớ đã khiến cho nàng cảm thấy mỗi giờ trôi qua đều dài “đằng đẵng” như một năm trôi qua vậy.Thời gian không còn tuần tự như nhịp sinh học bình thường của nó nữa mà đã được tác giả so sánh với “mối sầu dằng dặc tựa miền biền xa”.Đó chính là nỗi buồn mênh mang, vô tận, rộng lớn như biểnvà nó luôn chảy trôi mãi mãi. Hai từ láy “dằng dặc” và “đằng đẵng” đã cụ thể hóa nỗi nhớ của người chinh phụ, cho thấy tâm trạng buồn triền miên, kéo dài vô vọng của nàng.

Người phụ nữ ấy vẫn đang chiến đấu với nỗi cô đơn trong chính tâm hồn mình, để những hành động của nàng giờ đây chỉ là “gượng”. Điệp từ “gượng” được lặp đi lặp lại ba lần, nàng “gượng” đốt hương, “gượng” soi gương, “gượng” gẩy những phím đàn nhưng nàng nhận ra rằng, dù mình có cố gắng làm gì đi chăng nữa thì cũng chẳng còn ai ở cạnh để thưởng thức những âm vang đó. Nàng “gượng” đốt hương để cho căn phòng chìm ngập trong hương thơm thoang thoảng nhưng nàng lại chìm vào cơn mê man khi “hồn đà mê mải”. Có lẽ, tâm trí nàng giờ đây chỉ có hình ảnh của người chồng mà thôi.Nàng “gượng” soi gương để chỉnh trang lại nhan sắc của mình, thế nhưng chẳng biết từ đâu mà “lệ lại châu chan”.Nàng nhìn thấu nỗi đau của mình trong gương ấy và rồi không kìm được những giọt lệ chỉ chực tuôn trào. Nàng muốn thay đổi không khí yên tĩnh, u buồn, nàng gượng gảy những phím đàn để xua tan không khí yên lặng ấy. Thế nhưng, dây “uyên kinh đứt” phải chăng là dự cảm không lành về hạnh phúc mong manh chỉ như sợi tơ hồng của nàng để giờ đây chỉ còn lại những “phím loan ngại chùng”.Nàng vốn mang trong mình nhiều nỗi lo nên khi dây “uyên kinh đứt” nàng lại còn lo lắng hơn.Người phụ nữ dường như đã đã chìm hoàn toàn vào tuyệt vọng, bút pháp tả cảnh ngụ tình của nhà thơ đã cho thấy sự héo úa cả về tâm tư và dáng hình người phụ nữ.

Nếu ở khổ thơ trên là nỗi buồn, nỗi cô đơn triền miên của người chinh phụ thì ở khổ thơ này chính là nỗi nhớ thương chồng đau đáu, khôn nguôi:

“Lòng này gửi gió đông có tiện?

Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.

Non Yên dù chẳng tới miền,

Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.

Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,

Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.

Cảnh buồn người thiết tha lòng,

Cành cây sương đụng tiếng trùng mưa phun”.

Phải chăng, người phụ nữ đã gom hết những yêu thương trong lòng để nhờ cơn gió đông kia gửi đến chồng ở nơi “Non Yên”. “Gió đông” chính là gió xuân tươi mát làm dịu đi nỗi buồn trong cảnh vật và lòng người nhưng nỗi nhớ chồng của người chinh phụ vẫn luôn thường trực trong lòng. Không gian xa xôi cách trở nên người chinh phụ bèn nhờ cơn gió đông gửi đến chồng những lời yêu thương nhất. Tâm trạng của người phụ nữ được miêu tả trực tiếp qua nỗi nhớ dài đằng đẵng được so sánh bằng đường lên tận trời.Đất trời bao la liệu có thấu cho nỗi chia li đau đớn của nàng không?Nỗi nhớ thương ấy còn có cả dư vị của sự ngậm ngùi, xót xa “Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong”.Đường lên trời mù mịt, xa xôi cách trở cũng giống như nỗi nhớ mong của nàng rộng lớn như bể, chẳng biết đâu là bến bờ, cũng chẳng biết khi nào người chồng mới trở về bên nàng.

Cảnh vật xung quanh được nhìn dưới đôi mắt buồn của người chinh phụ càng trở nên sầu muộn hơn: “Cảnh buồn người thiết tha lòng/ Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”. Người phụ nữ ấy đã nhìn cảnh vật xung quanh với đôi mắt buồn làm cho khung cảnh càng thêm hoang vắng, quạnh hiu.Người phụ nữ ấy sống trong sự dày vò của cô đơn, trong nhớ nhung, lo lắng day dứt suốt ngày dài triền miên nhưng ta cũng thấy được niềm khao khát được hưởng hạnh phúc đến mãnh liệt của nàng.

Đoạn trích trên đã miêu tả thành công “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” bằng tấm lòng nhân đạo của tác giả. Nhà thơ đã khắc họa thành công hình ảnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, tiêu biểu cho bi kịch về hạnh phúc lứa đôi, là hiện thân của cái đẹp với một tấm lòng chung thủy sắt son với chồng. Nhà thơ đã lên án chiến tranh phi nghĩa cướp đi hạnh phúc của con người, chính vì mà thế đoạn trích trên đã được rất nhiều bạn đọc yêu thích.

Bài phân tích số 3

Có thể nói, ở mỗi thời đại, văn học đều là tấm gương phản chiếu lên được mặt tốt và mặt xấu của xã hội. Khai thác và đào sâu vào những vấn đề thuộc về nội tâm của con người. Tác phẩm “Chinh phụ ngâm là một điển hình tiêu biểu như thế, đặc biệt là mười sáu câu đầu đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”. Đoạn trích phản ánh lên tội ác của những cuộc chiến tranh phi nghĩa đã làm cho người chinh phụ phải rơi vào tình cảnh cô đơn lẻ loi, tâm trạng đau khổ khắc khoải khôn nguôi. Hãy cùng thả lòng mình đến với 16 câu đầu đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” để cảm nhận rõ nét hơn nỗi cô đơn của người vợ có chồng đi chinh chiến.
Mười sáu câu đầu đoạn trích là khung cảnh người chinh phụ chờ đợi chồng trong hoàn cảnh u buồn, đơn độc. Những hành động được tiếp diễn đưa cảm xúc lên cao trào. Mở đầu cho cảm xúc cô đơn, đau buồn kéo dài theo không gian và thời gian vô tận là hành động chậm rãi:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.”
Hành động được hiện ra với dáng vóc đầy suy tư của người chinh phụ. Nhịp thơ nhẹ nhàng, như để đi vào cảm xúc. Những động từ “dạo, gieo từng bước”, cho thấy những bước chân nặng nề mang đầy tâm trạng bâng khuâng, lo lắng, không gian im lặng đến mức nghe từng tiếng bước chân. Người chinh phụ dường như đang suy nghĩ trăn trở nên nàng “ngồi” mà lòng thì chẳng để tâm. Tác giả đã sử dụng hình ảnh ” rủ thác đòi phen”- kéo màng lên rồi lại buông màn xuống. Để cho thấy hành động lặp đi lặp lại vô nghĩ. Và rồi dường như có tiếng thầm thì trách móc:

“Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng.
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.”

Người chinh phụ bắt đầu giãi bày nỗi niềm tâm sự của mình. Thực sự nàng đang rất nhớ người chinh phu điều đó được thể hiện rõ nét qua hình ảnh “chim thước”- chim khách, là loài chim thường mang tin tốt lành. Nàng trách chim thước chẳng báo một chút tin tức nào của người chồng, để nàng phải đợi mong, cô đơn khắc khoải. Nghệ thuật đối lập “ngoài rèm” và “trong rèm” để cho thấy nỗi cô đơn ấy bao trùm tất cả không gian bên trong và bên ngoài phòng khuê. Và nàng cũng cần lắm một người tâm sự cùng mình. “Đèn” được nhà thơ nhân hóa lên như một người bạn. Nếu với “Ca dao yêu thương tình nghĩa”: ” Đèn thương nhớ ai mà đèn không tắt” chiếc đèn nguyện cùng cô gái thao thức suốt đêm mộng mơ nhớ thương, thì với Chinh phụ ngâm chiếc đèn lại phũ phàng với người phụ nữ lẻ loi ấy. “Đèn” đã tắt khi người chinh phụ đang cần lắm một sự sẻ chia, “đèn” đã làm cho người chinh phụ nhận ra rằng “dù thế nào thì đèn cũng chỉ là vật vô tri vô giác” chẳng thể chia sẻ cùng nàng được. Tác giả đã sử dụng câu hỏi tu từ “Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?” Như muốn cho người đọc cảm nhận người chinh phụ đã đi qua từng cảm xúc. Và đến khi tuyệt vọng nàng đã nói một câu mà nghe như xé lòng: Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi” nàng xin nhận hết và chịu đựng hết nỗi cô đơn cho riêng mình. Bởi vì chẳng có ai bên cạnh để nàng chia sẻ. Biết bao nỗi niềm chất chứa chẳng nói thành lời:
“Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”
Nỗi buồn u ám dưới màng đêm, nỗi buồn mà ngay cả nàng cũng chẳng thể nói nên lời được. Có lẽ do nỗi buồn ấy quá lớn và nó lại hiện lên mỗi ngày. Nghệ thuật so sánh “Hoa đèn” với “bóng người”, người chinh phụ nhìn hoa đèn mà nghĩ đến cuộc đời của mình có mau lụi tàn như chiếc hoa đèn kia hay không? Hay còn hẩm hiu hơn thế nữa? Càng nghĩ nàng càng thấy buồn, dường như lúc này cảnh vật cũng rũ xuống một màu đen tối:
“Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khác giời đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.”
Trời đã khuya, không gian yên tĩnh, nghe từng tiếng gà gáy. Âm thanh vang lên “eo óc” thưa thớt, hình ảnh hoa hòe “rũ bóng bốn bên”, thời khắc cảnh vật mỏi mòn chìm vào đêm tối. Đã qua hết năm canh mà người chinh phụ vẫn còn thao thức với nỗi sầu khó vơi đi được. Sự so sánh “khắc giờ” như “niên”, một giờ dài bằng một năm, điều đó càng tô đậm hơn nỗi cô đơn. Thời gian cũng kéo dài cùng với nỗi sầu muộn của nàng. Cùng với từ láy “đằng đẵng”, “dằng dặc” cho thấy sự kéo dài triền miên đau đớn cứ mãi day dứt trong lòng. Nghệ thuật lấy động tả tỉnh làm nổi bật lên không gian, thời gian, lấy cái xa của biển cả để nói về cái buồn của lòng người là một cách miêu tả đầy tinh tế. Tiếp đến nàng muốn tìm những thú vui tao nhã, tập cách quên đi nỗi buồn trước mắt:
“Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng.”
Nhưng nàng chẳng biết rằng những thú vui tao nhã này lại khi nàng chìm đắm vào nỗi sầu mênh mang. Khi đốt hương, hồn nàng lại rơi vào trạng thái mơ màng, nỗi sầu lại theo đó mà dâng lên. Rồi khi soi gương để tô son điểm phấn, nàng lại càng xót xa cho thân phận của mình, nhan sắc của một người phụ nữ đang dần phai mòn đi theo những tháng ngày lẻ loi, không có chồng bên cạnh để làm điểm tựa. Khi đánh đàn nàng lại sợ “dây uyên đứt”, “phím loan chùng” nàng sợ những điều không may xảy đến cuộc tình của nàng. Biết bao nỗi đau đau, nỗi sợ bủa vây lấy nàng. Điệp từ “gượng” được lặp lại ba lần cho thấy sự miễn cưỡng trong hành động. Cũng chỉ vì quá cô đơn, muốn quên đi mà nàng mới làm. Nhưng dù có thú vui tao nhã đến đâu, dù tô son điểm phấn hay đánh đàn thì cũng chẳng bao giờ nàng cảm thấy vui, bởi vì ngay lúc này với nàng là nỗi cô đơn mong mỏi chồng từ nơi chinh chiến sẽ trở về, mong được nghe một lời động viên an ủi từ người chồng của mình. Nhưng tất cả đều không!
Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, sử dụng những điệp từ, so sánh nhiều hình ảnh để vẽ ra khung cảnh của người chinh phụ mang nhiều tâm trạng. Sự cô đơn, lẻ loi của người phụ nữ trong đêm tối. Và khi hình ảnh buồn khổ ấy hiện lên chân thực đến đâu thì càng vạch trần cái tội ác xấu xa của chiến tranh phi nghĩa đẩy biết bao gia đình rơi vào cảnh chia lìa. Mà niềm cảm thông lớn nhất là dành cho người chinh phụ, là phụ nữ nhưng họ phải hy sinh tuổi xuân để chờ chồng mà chẳng có chút tin tức, không có ai chia sẻ những nỗi buồn. Từ đấy cho ta thấy được cách chọn đề tài của Đặng Trần Côn rất mới mẻ, phù hợp với thời đại lúc bấy giờ. Cách miêu tả nội tâm đầy sâu sắc của ông, cho thấy ông là một người có vốn sống rất rộng. Đồng thời là sự sắc sảo trong cách dùng từ của hai dịch giả Đoàn Thị Điểm và Phan Huy Ích đã tạo nên đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” rất thành công.
Thông qua mười sáu câu đầu của đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” càng giúp ta hiểu rõ nét hơn những nỗi cô đơn của người phụ nữ trong xã hội cũ khi có chồng đi chinh chiến. Nó là nỗi cô đơn da diết kéo dài theo không gian thời gian. Từ đó cho thấy hậu quả của chiến tranh phong kiến phi nghĩa. Và là lời ca ngợi cho tác giả Đặng Trần Côn, ông quả là một nhà thơ tài năng và tác phẩm của ông đã chạm đến trái tim của đọc giả và vượt qua hàng trăm năm, nhưng mỗi lần nhắc về những tác phẩm chữ hán, người ta sẽ nghĩ ngay đến “Chinh phụ ngâm”. Ông đã để lại cho nền văn học nước nhà một áng văn hay.

Bài phân tích số 4

Không có một nỗi đau nào bằng nỗi đau vợ xa chồng, con xa cha,mẹ già xa tiễn con ra mặt trận. Những nỗi đau , nỗi khổ tâm ấy như tức tưởi dâng trào,lúc lại nghẹn ngào khó tả, đặc biệt là cảnh người phụ nữ phải chứng kiến cảnh tiễn chồng ra chiến trận, không biết có được gặp lại nữa hay không. Chinh phụ ngâm khúc” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Đặng Trần Côn cùng với những vần thơ dịch Nôm của Đoàn Thị Điểm viết về đề tài này.

“Chinh phụ ngâm” ra đời vào khoảng thế kỷ XVIII, đầu đời Lê Hiển Tông, phong trào khởi nghĩa nông dân diễn ra liên miên, triều đình điều binh lính đi dẹp loạn. Từ đấy nhiều gia đình chịu cảnh chia lìa, kẻ ở người đi, không hẹn ngày gặp lại. Số phận và bi kịch của những con người nhỏ bé trong cái xã hội phong kiến đang đứng bên bờ vực thẳm ấy đã lay động trái tim của Đặng Trần Côn, khiến ông chấp bút khúc ngâm với 476 câu thơ, làm theo thể trường đoản cú. Tác phẩm khi đươc Đoàn Thị Điểm dịch sang chữ Nôm đã chuyển về về thể thơ song thất lục bát, dùng âm điệu réo rắt, thiết tha của thể thơ dân tộc góp phần thể hiện tình cảnh và tâm trạng của người phụ nữ có chồng đi lính.

(Cần có thêm một đoạn giới thiệu nội dung chính của đoạn thơ mà đề bài yêu cầu phân tích. Ví dụ: “Trong đó, mười sáu câu thơ đầu diễn tả tâm trạng cô đơn mong ngóng của người chinh phụ” )

16 câu đầu: Nỗi cô đơn sầu tủi của người chinh phụ

Sau khi tiễn chồng ra trận, người chinh phụ bơ vơ chốn khuê phòng vắng lặng, lạnh lẽo, nỗi khổ tâm của nàng được bộc lộ qua hành động và ngoại cảnh

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,

Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.

Ngoài rèm thước chẳng mách tin,

Trong rèm dường đã có đèn biết chăng ?”

Người chinh phụ dạo bước trong hiên vắng, vừa đi vừa thầm đếm bước chân mình, như đếm từng ngày chồng đi. Những bước chân lặng lẽ của nàng nặng trĩu u sầu, đong đầy thương nhớ. Trong những buổi đi dạo của nàng đã không còn vẻ ung dung, an nhàn mà thay vào đó là sự ngán ngẩm, buồn chán. Nàng hết dạo hiên, lại ngồi buồn, cuốn rèm, buông rèm. Những hành động vô nghĩa ấy được lặp đi lặp lại trong vô thức, nàng chẳng còn bận tâm mình đang làm gì bởi tâm trí nàng giờ dồn hết vào nỗi lo lắng cho người chồng đang tòng quân. Bằng cách sử dụng từ ngữ “vắng”, “thưa”, tác giả đã vẽ ra không gian trống trải, thưa thớt tình thương yêu, càng tô đậm sự lẻ loi, buồn bã, bồn chồn của nhân vật trữ tình. Người chinh phụ không chỉ buồn nhớ, lo lắng cho chồng mà còn lo lắng, trông ngóng tin chàng. Nàng đợi tin lành của chim thước sẽ xoa dịu nỗi bất an, nhưng chim thước không tới. Nàng lại trỏ bóng đèn, hỏi đèn mà hỏi lòng. Nàng nhận ra rằng càng hi vọng, mòn mỏi trông chờ nàng càng hụt hẫng, tuyệt vọng. Khát khao sum vầy đoàn tụ, khát khao hơi ấm gia đình càng khiến nàng đau đớn, thất vọng. Câu hỏi tu từ và điệp từ “rèm” lặp lại ba càng đẩy nàng vào bế tắc, cái bế tắc của do xã hội phong kiến suy tàn, của triều đình loạn lạc gây nên khiến niềm tin của con người về tình yêu, hạnh phúc không còn giá trị. Chao ôi, người chinh phụ mới đáng thương làm sao!

Người chinh phụ hết mong ngày, lại mong đêm, khi bóng tối cô đơn tịch mịch kéo xuống bao trùm lấy nàng, nàng chỉ có thể làm bạn với bóng đèn.

“Trong rèm dường đã có đèn biết chăng ?

Đèn có biết dường bằng chẳng biết,

Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.

Buồn rầu nói chẳng nên lời,

Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”

Câu thơ sử dụng điệp ngữ bắc cầu “đèn biết chăng”, “đèn có biết” khiến nỗi buồn đau, thương nhớ của người chinh phụ thêm da diết, day dứt. Trong tâm trạng đó, nàng đối diện với ngọn đèn dầu, mong muốn được thấu hiểu, được chia sẻ tâm tư. Đặng Trần Côn mượn cây đèn đang tàn mà ẩn dụ sự trôi đi nhanh chóng của thời gian, sự tàn lụi, héo hon của kiếp người. Nhà thơ muốn nói: cuộc đời chỉ là kiếp hoa đèn mong manh dang dở. Chính vì vậy, vật vô tri vô giác là cây đèn cháy đỏ khắc khoải, cháy đến tàn bấc dầu kia không những không thể đồng cảm với nỗi đau buồn, tình cảnh cô đơn, lẻ loi người chinh phụ mà càng khiến nàng vô vọng khôn cùng. Tâm trạng của nhân vật trữ tình được khắc họa bằng những tính từ chỉ cảm xúc: “bi thiết”, “buồn rầu”, “thương”. “Bi thiết” được hiểu là bi thương, thảm thiết, từ “thiết” theo nghĩa Hán Việt còn có nghĩa là cắt, mài. Những suy tư muộn phiền của người chinh phụ khao khát được bộc lộ, được thấu hiểu, nhưng trong tình cảnh cô độc vắng tẻ của nàng biết lấy ai để trút bầu tâm sự, nàng chỉ biết dồn nén những cảm xúc ấy, cảm nhận nỗi đau như thể trái tim bị cứa, mài. Qua việc cảm nhận tâm sự của người chinh phụ khi đối diện với ngọn đèn, người đọc trầm trồ ngợi ca tài năng nghệ thuật trong miêu tả tâm trạng của tác giả!

Ngọn đèn tắt, bỏ lại người chinh phụ cô quạnh trong đêm dài tịch mịch u sầu.

“Gà eo óc gáy sương năm trống,

Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.”

Một đêm dài năm canh, người chinh phụ vì trông ngóng người chinh phu, thức trọn năm canh, nghe tiếng gà gáy mà sợ hãi, buồn rầu. Cái âm thanh “eo óc” ấy thưa thớt, ghê rợn, tang tóc, khó chịu, từng tiếng từng tiếng vang lên rõ mồn một, đối lập với sự tĩnh lặng, trầm lắng trong tâm nàng. Tiếng gà gáy trong đêm gợi ra khoảng không mênh mông, hiu quạnh, khiến người phụ nữ cô đơn, lẻ loi trở nên nhỏ bé, đáng thương. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh đẩy tâm trạng người chinh phụ lên một nấc thang mới, khiến nó đau đớn hơn, cô độc hơn, dày vò nàng hơn. Không chỉ có tiếng gà gáy khiến nàng trằn trọc, bóng “hòe phất phơ” cũng khiến người chinh phụ suy tư, lo nghĩ. Vây quanh người chinh phụ là những bóng dáng mập mờ lay động trong đêm, như ẩn như hiện, như có như không. Từ láy gợi hình “phất phơ” càng tăng thêm tính mơ hồ, hư ảo của cảnh vật, của tin tức về người chồng ngoài biên ải, của những buổi đoàn tụ, sum họp gia đình trong mơ ước ấy, nàng càng mong chờ, càng cảm thấy xa xôi.

Trong không gian vắng lặng, thời gian đã đi qua màn đêm, người chinh phụ ôm nỗi nhung nhớ, thấm thía về bi kịch đời mình.

“Khắc giờ đằng đẵng như niên,

Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.”

Vắng chồng, cuộc sống của người chinh phụ thật tẻ nhạt, buồn chán và nặng nề với những thương nhớ đong đầy từng khắc, cô đơn bủa vây từng giờ. Những ngày tháng này, thời gian trôi đi thật chậm chạp, như muốn gặm nhấm chuỗi ngày sầu bi của nàng. Một ngày không còn được đo bằng vài canh, mấy khắc, mà được tính đếm bằng cả năm dài “đằng đẵng”. Từ láy “đằng đẵng” kéo dài thời gian, kéo dài nỗi buồn và tình cảnh lẻ loi của người phụ nữ có chồng ra trận. Nỗi buồn của người chinh phụ càng triền miên, không có hồi kết. Tác giả đã so sánh tâm tư của nàng với hình ảnh ước lệ “miền biển xa”, những lo lắng, buồn thương, đau xót của người chinh phụ vượt ra ngoài giới hạn về không gian và thời gian.

Người chinh phụ chán ghét thời gian trôi chậm chạp, cố vùng thoát khỏi chuỗi ngày cô đơn, lẻ loi dai dẳng.

“Hương gượng đốt hồn đà mê mải

Gương gượng soi lệ lại châu chan.

Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,

Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng.”

Mong muốn xóa tan ưu phiền, người chinh phụ đốt hương nhưng lại không kìm được lòng mà mê man trong quá khứ. Người chinh phụ cũng bồi hồi nhớ lại lời hẹn thề năm nào. Nhưng càng tiếc nuối quá khứ tươi đẹp, nhân vật trữ tình càng thấm thía bi kịch hiện tại. Nàng trơ trọi, bơ vơ trong sự thật hiển nhiên: những mặn nồng xưa kia không thể lấy lại được. Vậy, việc đốt hương vốn để tìm lại niềm thanh thản trong tâm hồn lại khiến người phụ nữ bé nhỏ, đáng thương và bơ vơ thêm thống khổ. Người chinh phụ đành tìm cách khác để giải tỏa tâm sự: nàng soi gương. Trong chuỗi ngày đợi chờ người chinh phu, người chinh phụ chẳng buồn đoái hoài đến phấn son hoa lệ. Nhưng đêm nay, mong muốn thoát khỏi nỗi cô đơn bủa vây, nàng gượng gạo cầm gương soi. Nàng giật mình xót xa cho dung nhan võ vàng của người phụ nữ trong gương kia. Nàng khóc cho tuổi xuân héo tàn, cho dung mạo đang độ tươi thắm bị nỗi đau âm ỉ tàn phá. Nhưng những giọt lệ nào có thể giúp nàng cứu vãn được tình cảnh bi đát này. Cảm thấy việc đốt hương, soi gương không thể giúp quên đi chuyện buồn, người chinh phụ tìm đến tiếng đàn. Tác giả sử dụng một loạt hình ảnh ước lệ như “sắt cầm”, “dây uyên”, “phím loan” tượng trưng cho tình yêu đôi lứa, cho vợ chồng hòa hợp. Người chinh phụ lo sợ dây đàn đứt, báo điều chẳng lành về cuộc hôn nhân đang bị chia cắt, về người chồng ngoài chiến trường bặt vô âm tín. Điệp từ “gượng” cho thấy sự cố gắng gượng gạo, chán nản ở người chinh phụ, nàng vùng vẫy trong nỗi cô đơn nhưng lại bị chính nỗi cô đơn bóp chặt. Những thú vui của tầng lớp quý tộc giờ đây lại không thể đem lại cho nàng niềm vui, hơn thế nữa chúng lại như liều thuốc kích thích khối u sầu khổ trong lòng nàng. Nàng chỉ mong được sum vầy, nhưng buổi đoàn tụ trong tưởng tượng của nàng lại quá đỗi xa xỉ trong hoàn cảnh này.

Giúp việc truyền tải nội dung và giá trị nhân đạo của “Chinh phụ ngâm” là tài năng nghệ thuật và sáng tạo tài tình của tác giả và dịch giả. Xuyên suốt mười sáu câu thơ trong đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” là các biện pháp nghệ thuật như điệp ngữ, câu hỏi tu từ, ẩn dụ,… và các bút pháp ước lệ tượng trưng, tả cảnh ngụ tình. Tác giả cũng có sự chọn lọc tinh tế các từ ngữ gợi hình, gợi cảm để miêu tả chi tiết và chân thực, cảm động từng cung bậc cảm xúc của nhân vật trữ tình. Thêm vào đó, thể thơ song thất lục bát với âm điệu réo rắt, thiết tha, giàu tính nhạc cũng góp phần quan trọng thể hiện nội tâm người chinh phụ. Bên cạnh đó, Đoàn Thị Điểm rất trung thành với nguyên tác khi dịch nên nhiều ý thơ giàu cảm xúc được truyền tải đến người đọc một cách trọn vẹn.

8 câu sau: Nỗi nhớ

Đây là đoạn trích tiêu biểu cho giá trị nhân đạo của tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc. Đoạn trích đã thể hiện khá chân thành và sâu sắc nội tâm người chinh phụ khiến người đọc ko còn nghĩ đây là tâm tình của một người phụ nữ trong sử sách cổ ở một đất nước xa xôi nào đó mà là nỗi lòng của hàng ngàn, hàng vạn người vợ VN trong một thời đại rối ren và đầy bão tố.

Lời tâm sự của người chinh phụ trong đoạn trích vô cùng đau xót, nó mang tâm trạng cô đơn, trống vắng của một con người sống với những tháng ngày chìm đắm trong sầu tư khắc khoải nhưng lòng vẫn luôn hướng về nơi biên thùy xa xôi. Nơi đó có hình bóng của một con người mà nàng yêu thương nhất:

Lòng này gửi gió đông có tiện,

Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.

Non Yên dù chẳng tới miền,

Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời

“Lòng này ” là sự thương nhớ khôn nguôi vì đã trải qua nhiều đợi chờ.” “Gió đông” là gió xuân tươi mát, làm dịu cảnh vật và lòng người sẽ chuyển nỗi nhớ đến miền đất lạ mong được chia sẻ với đức lang quân. “Non yên” là ở phương Bắc xa xôi. Nàng muốn gửi “nghìn vàng”, tấm lòng chung thủy sắc son của mình đến “non Yên”, nơi chiến trận ngoài biển ải xa xôi. Bằng bút pháp nghệ thuật đặc sắc mà nhà thơ đã khắc họa một không gian vô cùng, vô tận. Ng chinh phụ như van nài cả ngon gó đông gửi lời thương nhớ, nỗi lòng của mình đến với chồng đang ngoài biển ải xa xôi. Câu hỏi tu từ “Lòng này gửi gió đông có tiện: như đag hỏi chính lòng mình. Câu thơ vang vọng vào cả không gian. Cùng với việc sử dụng nhiều từ trang trọng “có tiện” “nghìn vàng”, “xin gửi” thể hiện sự nhún mình, sự năn nỉ ngọn gió. Nhưng đó là mong ước phi thực tế, hi vọng lóe lên rồi vụt tắt ngay. Bằng thủ pháp so sánh “Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời” cho thấy tấm lòng thương nhớ vô bờ bến, ko gì có thể cân đo đong đếm dc. Từ láy “thăm thẳm” thể hiện được mức độ của nỗi nhớ một cách tài tình. Khổ thơ có điển cố “non Yên” tức núi Yên Nhiên thuộc Mông Cổ, chỉ vùng biên ải xa xôi hiểm trở. Gió đông là gió mùa xuân, cũng là một hình ảnh ước lệ. Song, đặt vào tâm trạng tha thiết của người chinh phụ, chúng ko có vẻ gì khuôn sáo nữa. Ngta chỉ thấy khoảng cách giữa nàng và chồng ngày một muôn trùng xa cách và đọng lại vẫn là nỗi lòng đau đáu trong không gian và thời gian:

Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,

Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong,

Cảnh buồn người thiết tha lòng,

Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun

Hai câu thơ thất ngôn tương phản sâu sắc tạo nên cảm giác xót xa cay đắng. Đất trời dường như bao la bát ngát đến vô hạn: Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu. Nỗi lòng ném ra xa, rồi lại trở về với bao nỗi dày vò, vướng vít, trăn trở, “đau đáu” ko sao gỡ được. Hơn cả nỗi buồn, nó chuyển thành nỗi đau khôn tả “thiết tha lòng”, nỗi đau như bị chà đi xát lại. “Cảnh buồn người thiết tha lòng”, đúng như sau này thi hào Ng Du đúc kết: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu. Người buồn cảnh có vui đâu bh.” Điệp từ “nhớ” được nhắc đến hai lần trong câu kết hợp với những hình ảnh của trời thăm thẳm như thể hiện nỗi nhớ ấy sâu tận trong tim và trong đáy lòng. Người con gái ấy nhớ đến mức làm cho nỗi nhớ ấy bỗng chốc biến thành nỗi đau đớn vô cùng cực. Nỗi nhớ ấy dài tựa đường lên trời, nỗi đau ấy là một nỗi đau đáu dày vò trong tim. Tiếp theo là một loạt tâm cảnh xuất hiện. Từ giọt sương, tiếng trùng, đến mưa xuân rả rích bình thường mà như ẩn tàng một sức mạnh ghê gớm; nó gây nên bao nỗi đoạn trường cho người chinh phụ đáng thương. Những hình ảnh ấy cho ta thấy được tâm trạng sầu muộn của người con gái. Phải chăng những hình ảnh ấy giống như giọt nước mắt của người chinh phụ trong đêm sâu. Nó không cào xé giữ dội mà nó cứ nhỏ nhẹ thấm dần vào trong những nỗi đau lớn ấy.

Có thể thấy, bức tranh thiên nhiên đã trở thành tấm gương phản chiếu tâm trạng u buồn, sầu não, héo mòn của người chinh phụ. Tâm trạng người chinh phụ đc miêu tả sầu thảm càng làm cho khung cảnh thiên nhiên hoang vắng, quạnh hiu lại càng làm nổi bật khát khao mãnh liệt đc hưởng hạnh phúc lứa đôi, đoàn tụ gia đình.

Với thể thơ song thất lục bát, cách dùng từ, hình ảnh ước lệ, điệp ngữ, nghệ thuật miêu tả nội tâm, đoạn thơ đã thể hiện một cách tinh tế những cung bậc sắc thái tình cảm khác nhau của nỗi cô đơn buồn khổ ở nàng khao khát được sống trong hạnh phúc, tình yêu lứa đôi.

Đoạn trích còn thể hiện tấm lòng yêu thương, cảm thông sâu sắc của tác giả với những khát khao hạnh phúc chính đáng của người thiếu phụ, cất lên tiếng kêu nhân đạo, phản đối chiến tranh phi nghĩa. Mặt khác, tác phẩm còn nói lên khát khao cháy bỏng của con người về cuộc sống, hòa bình và mong muốn được hưởng hạnh phúc của tuổi trẻ, tình yêu, không phải mòn mỏi chờ đợi để tàn đi tuổi thanh xuân của mình một cách vô lí như Xavier Forneret đã nói: “Người con gái là một đóa hoa hồng mà năm tháng tỉa dần từng cánh”.

Bài phân tích số 5

Đặng Trần Côn (chưa rõ năm sinh, năm mất) người làng Nhân Mục, tên nôm là làng Mộc, huyện Thanh Trì, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông sống vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII. về sáng tác, ngoài tác phẩm chính là Chinh phụ ngâm, ông còn làm thơ chữ Hán và viết một số bài phú chữ Hán. Theo các tài liệu lịch sử, đầu đời Lê Hiển Tông, có nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra quanh kinh thành Thăng Long. Triều đình cất quân đánh dẹp, nhiều trai tráng phải từ giã người thân ra trận. Đặng Trần Côn cảm động trước nỗi khố đau mất mát của con người, nhất là những người vợ lính trong chiến tranh, đã viết Chinh phụ ngâm. Khúc ngâm này gồm 476 câu thơ làm theo thể trường đoản cú (câu thơ dài ngắn không đều nhau).

Tác phẩm đã được dịch ra chữ Nôm, và chưa biết ai là tác giả bản dịch hiện hành. Có người cho rằng đó là bản dịch của Đoàn Thị Điểm. Lại có người cho rằng Phan Huy Ích chính là dịch giả của Chinh phụ ngâm. Đoạn trích dưới đây thuộc bản dịch hiện hành, viết về tình cảm và tâm trạng người chinh phụ phải sống cô đơn, mòn mỏi trong thời gian dài người chồng đi đánh trận, không có tin tức, không rõ ngày trở về. Kể từ lúc tiễn chồng vào “cõi xa mưa gió” người chinh phụ trở về sống trong tình cảm đơn chiếc, lẻ loi. Ngày cũng như đêm, sau khi công việc đã yên mọi bề, người chinh phụ

Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?

Bốn câu thơ song thất lục bát với vần điệu chặt chẽ, thăng trầm như những nốt nhạc buồn càng làm đậm thêm tình cảnh đơn chiếc, lẻ loi kia. Người trước có lúc sóng đôi vợ chồng thì nay “thầm gieo từng bước” dưới mái hiên vắng vẻ. Ngày nào bàn chuyện làm ăn cùng chồng bên cửa sổ thì nay buông xuống kéo lên nhiều lần mong ngóng nhưng chẳng thấy chim thước báo tin lành. Ngày thì như thế, còn đêm thì không ngủ được, một mình đối diện với ngọn đèn khuya. Tình cảnh của người chinh phụ quá lẻ loi, đơn chiếc. Ngày thì khắc khoải chờ mong. Đêm dài câm lặng, biết riêng lòng mình, Hoa đèn kia dẫu sao còn lửa. Riêng lòng này với bóng lạnh lùng.

Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.

Hai câu lục bát, một câu miêu tả thời gian, một câu miêu tả nỗi buồn. Cả hai câu đều mang nghệ thuật so sánh. Trong tình cảnh lẻ loi ấy thì một giờ là đợi dài tựa một năm, như người xưa thường ví “Nhất nhật bất kiến như tam thu hề”, ngày sau này Xuân Quỳnh tâm sự “Một ngày không gặp nhau / Biển bạc đầu thương nhớ”. Thời gian chờ đợi càng dài thì nỗi sầu càng lớn “tựa miền biển xa”. Tình cảnh đã bước qua tâm trạng. Đấy là tâm trạng nhớ thương của người chinh phụ gửi tới chồng ở miền xa. Nỗi nhớ thương thật tha thiết.

Lòng này gửi gió đông có tiện?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.

Bốn câu thơ trên là lời tâm sự của vợ gửi đến chồng. Nhưng chim thước không có để nhờ mang thư đi. Vậy thì gửi lời nhớ thương theo gió. Nhưng gửi theo gió đông thì gió có mang lời thủ thỉ đến được tai chàng? Biết chàng đang ở nơi nào ngoài mặt trận? Thôi thì lòng thương quý chàng xin được gửi đến nơi xa nhất mà chàng tới như Đậu Hiến đời Hậu Hán đánh đuổi giặc Bắc Thiền Vu đến núi Yên Nhiên, bởi vì:

“Nay Hán xuống Bạch Thành %